Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
91923

Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng

Ngày 21/11/2017 09:34:30

Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015, được kỳ vọng là một trong những chính sách mang lại nhiều thay đổi, giúp người dân, nhất là hộ nghèo có điều kiện cải thiện sinh kế để quản lý, bảo vệ và gắn bó thực sự với rừng.

 Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng,
 gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015

 đường băng xanh.jpg

Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015, được kỳ vọng là một trong những chính sách mang lại nhiều thay đổi, giúp người dân, nhất là hộ nghèo có điều kiện cải thiện sinh kế để quản lý, bảo vệ và  gắn bó thực sự với rừng.

I. Nâng mức hỗ trợ khoán quản lý bảo vệ rừng

Theo Nghị định, đối tượng được hỗ trợ gồm: hộ nghèo đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi đã và đang bảo vệ và phát triển rừng; cộng đồng dân cư thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Điều 54 Luật Đất đai. Theo đó, mức hỗ trợ đối với công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng được nâng lên 400.000 đồng/ha/năm với hạn mức diện tích rừng nhận khoán được hỗ trợ  tối đa là 30 ha/hộ. Như vậy tăng 200.000 đồng/ha so với mức chi trả hiện nay. Bên cạnh đó, nếu người dân trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ theo thiết kế - dự toán tối đa không quá 1,6 triệu đồng/ha/năm trong 3 năm đầu và 600 nghìn đồng/ha/năm cho 3 năm tiếp theo. Mặt khác, đối với diện tích đất lâm nghiệp được quy hoạch phát triển rừng sản xuất đã giao ổn định, lâu dài cho hộ gia đình được hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu tiên để trồng rừng sản xuất bằng loài cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ. Mức hỗ trợ này từ 5 triệu - 10 triệu đồng/ha để mua giống, phân bón và chi phí một phần nhân công, tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán. Ngoài ra, hộ gia đình nghèo tham gia trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phòng hộ thì được trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị 15 kg gạo/khẩu/tháng tại thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự túc được lương thực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức và thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7 năm. Tại tỉnh ta, triển khai thực hiện Nghị định này, Hạt Kiểm lâm đã có Công văn gửi các xã tiến hành rà soát lại số hộ nghèo tại các thôn buôn đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh. Hiện toàn xã có 278 hộ nghèo (1182 khẩu) thuộc  xã vùng II, vùng III của  huyện tham gia trồng rừng sản xuất, phát triển lâm sản ngoài gỗ với tổng diện tích trên 770 ha; 38hộ (191.. khẩu) tham gia trồng, quản lý bảo vệ rừng phòng hộ với tổng diện tích 556 ha. Căn cứ trên cơ sở đó Hạt Kiểm lâm tỉnh cũng đã lập dự toán tổng hợp diện tích hiện trạng rừng các xã khu vực II, III; diện tích khoán quản lý bảo vệ; diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh được giao có trồng bổ sung năm 2018; tổng nhu cầu trợ cấp gạo cho các hộ nghèo tham gia trồng rừng và phát triển lâm sản ngoài gỗ báo cáo Chi cục Kiểm lâm, trên cơ sở đó báo cáo bộ ngành chức năng ghi vốn cho địa phương triển khai trong giai đoạn 2016-2020.  

II. Hỗ trợ người dân về cơ chế tín dụng

Hiện nay hầu hết hộ gia đình và cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng dân tộc ở tỉnh ta nói riêng và các tỉnh miền núi nói chung gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao và vẫn sống dựa vào rừng. Chính vì vậy, một số nơi rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá để lấy đất sản xuất nông nghiệp. Cơ chế, chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng và xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số dù được Đảng và Nhà nước quan tâm nhưng nguồn lực phân tán và chưa đủ mạnh để tạo nguồn thu nhập ổn định giúp người dân yên tâm bảo vệ và phát triển rừng và sống được bằng nghề rừng. Hơn nữa, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại thường có lãi suất cao, điều kiện vay, thủ tục vay hết sức khó khăn (phải có tài sản thế chấp), thời gian cho vay ngắn, nên các doanh nghiệp và hộ gia đình khó tiếp cận được nguồn vốn. Trồng rừng có chu kỳ kinh doanh dài và rủi ro cao nên các ngân hàng thường không muốn cho vay trồng rừng; các hộ gia đình, cá nhân càng khó có cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để trồng rừng. Nếu được vay vốn, ngân hàng cũng chỉ cho vay tối đa khoảng 50% giá trị đầu tư, với lãi suất thương mại cao nên sau khi trừ chi phí, giá trị thu được  thường rất thấp. Đối với hộ nghèo thì việc tiếp cận với nguồn vốn này càng khó khăn hơn.

Theo Nghị định 75, căn cứ vào thiết kế - dự toán trồng rừng, ngoài số tiền để trồng rừng sản xuất, phát triển lâm sản ngoài gỗ như quy định, hộ gia đình còn được Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho vay trồng rừng với hạn mức 15 triệu đồng/ha. Thời hạn vay từ khi trồng đến khi khai thác theo chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng nhưng không quá 20 năm. Bên cạnh đó, các hộ gia đình còn có thể vay đến 50 triệu đồng mà không cần tài sản bảo đảm để chăn nuôi gia súc với thời hạn vay tối đa 10 năm. Mức lãi suất áp dụng chung là 1,2%/năm.

Có thể thấy, trong điều kiện công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, đời sống của người dân vẫn chưa thực sự được hưởng lợi từ rừng dẫn đến rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá, chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp, Nghị định 75  với những cơ chế hỗ trợ mới sẽ góp phần khuyến khích hộ gia đình nghèo tham gia nhận giao rừng, khoán bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời cải thiện sinh kế giảm áp lực lên rừng.

                                                                   KIỂM LÂM  ĐỊA BÀN

 

 

 

Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng

Đăng lúc: 21/11/2017 09:34:30 (GMT+7)

Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015, được kỳ vọng là một trong những chính sách mang lại nhiều thay đổi, giúp người dân, nhất là hộ nghèo có điều kiện cải thiện sinh kế để quản lý, bảo vệ và gắn bó thực sự với rừng.

 Cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng,
 gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015

 đường băng xanh.jpg

Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015, được kỳ vọng là một trong những chính sách mang lại nhiều thay đổi, giúp người dân, nhất là hộ nghèo có điều kiện cải thiện sinh kế để quản lý, bảo vệ và  gắn bó thực sự với rừng.

I. Nâng mức hỗ trợ khoán quản lý bảo vệ rừng

Theo Nghị định, đối tượng được hỗ trợ gồm: hộ nghèo đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi đã và đang bảo vệ và phát triển rừng; cộng đồng dân cư thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Điều 54 Luật Đất đai. Theo đó, mức hỗ trợ đối với công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng được nâng lên 400.000 đồng/ha/năm với hạn mức diện tích rừng nhận khoán được hỗ trợ  tối đa là 30 ha/hộ. Như vậy tăng 200.000 đồng/ha so với mức chi trả hiện nay. Bên cạnh đó, nếu người dân trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ theo thiết kế - dự toán tối đa không quá 1,6 triệu đồng/ha/năm trong 3 năm đầu và 600 nghìn đồng/ha/năm cho 3 năm tiếp theo. Mặt khác, đối với diện tích đất lâm nghiệp được quy hoạch phát triển rừng sản xuất đã giao ổn định, lâu dài cho hộ gia đình được hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu tiên để trồng rừng sản xuất bằng loài cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ. Mức hỗ trợ này từ 5 triệu - 10 triệu đồng/ha để mua giống, phân bón và chi phí một phần nhân công, tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán. Ngoài ra, hộ gia đình nghèo tham gia trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phòng hộ thì được trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị 15 kg gạo/khẩu/tháng tại thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự túc được lương thực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức và thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7 năm. Tại tỉnh ta, triển khai thực hiện Nghị định này, Hạt Kiểm lâm đã có Công văn gửi các xã tiến hành rà soát lại số hộ nghèo tại các thôn buôn đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh. Hiện toàn xã có 278 hộ nghèo (1182 khẩu) thuộc  xã vùng II, vùng III của  huyện tham gia trồng rừng sản xuất, phát triển lâm sản ngoài gỗ với tổng diện tích trên 770 ha; 38hộ (191.. khẩu) tham gia trồng, quản lý bảo vệ rừng phòng hộ với tổng diện tích 556 ha. Căn cứ trên cơ sở đó Hạt Kiểm lâm tỉnh cũng đã lập dự toán tổng hợp diện tích hiện trạng rừng các xã khu vực II, III; diện tích khoán quản lý bảo vệ; diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh được giao có trồng bổ sung năm 2018; tổng nhu cầu trợ cấp gạo cho các hộ nghèo tham gia trồng rừng và phát triển lâm sản ngoài gỗ báo cáo Chi cục Kiểm lâm, trên cơ sở đó báo cáo bộ ngành chức năng ghi vốn cho địa phương triển khai trong giai đoạn 2016-2020.  

II. Hỗ trợ người dân về cơ chế tín dụng

Hiện nay hầu hết hộ gia đình và cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở vùng dân tộc ở tỉnh ta nói riêng và các tỉnh miền núi nói chung gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao và vẫn sống dựa vào rừng. Chính vì vậy, một số nơi rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá để lấy đất sản xuất nông nghiệp. Cơ chế, chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng và xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số dù được Đảng và Nhà nước quan tâm nhưng nguồn lực phân tán và chưa đủ mạnh để tạo nguồn thu nhập ổn định giúp người dân yên tâm bảo vệ và phát triển rừng và sống được bằng nghề rừng. Hơn nữa, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại thường có lãi suất cao, điều kiện vay, thủ tục vay hết sức khó khăn (phải có tài sản thế chấp), thời gian cho vay ngắn, nên các doanh nghiệp và hộ gia đình khó tiếp cận được nguồn vốn. Trồng rừng có chu kỳ kinh doanh dài và rủi ro cao nên các ngân hàng thường không muốn cho vay trồng rừng; các hộ gia đình, cá nhân càng khó có cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để trồng rừng. Nếu được vay vốn, ngân hàng cũng chỉ cho vay tối đa khoảng 50% giá trị đầu tư, với lãi suất thương mại cao nên sau khi trừ chi phí, giá trị thu được  thường rất thấp. Đối với hộ nghèo thì việc tiếp cận với nguồn vốn này càng khó khăn hơn.

Theo Nghị định 75, căn cứ vào thiết kế - dự toán trồng rừng, ngoài số tiền để trồng rừng sản xuất, phát triển lâm sản ngoài gỗ như quy định, hộ gia đình còn được Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho vay trồng rừng với hạn mức 15 triệu đồng/ha. Thời hạn vay từ khi trồng đến khi khai thác theo chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng nhưng không quá 20 năm. Bên cạnh đó, các hộ gia đình còn có thể vay đến 50 triệu đồng mà không cần tài sản bảo đảm để chăn nuôi gia súc với thời hạn vay tối đa 10 năm. Mức lãi suất áp dụng chung là 1,2%/năm.

Có thể thấy, trong điều kiện công tác giao khoán quản lý bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, đời sống của người dân vẫn chưa thực sự được hưởng lợi từ rừng dẫn đến rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá, chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp, Nghị định 75  với những cơ chế hỗ trợ mới sẽ góp phần khuyến khích hộ gia đình nghèo tham gia nhận giao rừng, khoán bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời cải thiện sinh kế giảm áp lực lên rừng.

                                                                   KIỂM LÂM  ĐỊA BÀN